A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngữ văn là một trong 3 môn học quyết định kết quả kì thi tuyển sinh vào THPTđối với các em học sinh tham dự kì thi này. Trong đó, phân môn Văn học đóng vai trò hết sức quan trọng. Bởi cấu trúc của đề thi môn Ngữ văn vào lớp 10 THPT hiện nay thường có ba phần:Phần I. Tiếng Việt (2 điểm).Phần II. Viết một bài văn thuyết minh ngắn hoặc một văn bản nghị luận xã hội khoảng 300 từ (3điểm).Phần III. Tự luận Văn học (5 điểm).Để hoàn thành bài thi, học sinh chủ yếu phải vận dụng kiến thức phân môn Văn học để làm. Ngay cả câu hỏi phần Tiếng Việt, phần lớn ngữ liệu đều được trích từ các văn bản đã được học trong chương trình, kiến thức về văn bản đó sẽ giúp các em làm tốt hơn những yêu cầu của bài tập.Qua thực tế học sinh thực hành viết các bài văn nghị luận văn học, đặc biệt là qua các kì kiểm tra thi cử, các em thường bộc lộ một số hạn chế cả về kiến thức và kĩ năng làm bài. Ví dụ:1. Về kiến thức:
- Không nhớ chính xác hoàn cảnh sáng tác, nội dung, giá trị của tác phẩm
- Lẫn kiến thức giữa các tác giả, đặc điểm các nhân vật …
- Không thuộc dẫn chứng
- Viết sai tên tác phẩm hay tên đoạn trích
Ví dụ câu hỏi:
Không có kính, rồi xe không có đèn Không có mui xe, thùng xe có xước, Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước: Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Khổ thơ trên trích trong bài thơ nào? Của ai?
(Đề thi tuyển sinh lớp 10 THPT năm học 2007 -
2008)
Nhiều học sinh đã trả lời: Khổ thơ trích trong bài thơ "Tiểu đội xe không kính'' của
Phạm Tiến Duật.
2. Về kĩ năng:
- Không đọc kĩ đề để xác định yêu cầu của đề bài trước khi làm dẫn đến bài viết lạc đề, xa đề, thiếu ý hoặc không đúng trọng tâm, thậm chí lạc thể loại …
VD: Đề thi vào lớp 10 THPT năm 2009- 2010 yêu cầu: Viết một bài văn thuyết minh về Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều. Học sinh làm lạc sang phân tích giá trị
nội dung và nghệ thuật của Truyện Kiều.
- Không biết xác định các luận điểm, luận cứ
- Chưa biết cách dựng đoạn.
- Diễn đạt lủng củng.
- Phân bố thời gian làm bài chưa hợp lí: Dành quá nhiều thời gian cho câu ít điểm,
đến câu cuối (tự luận Văn học) còn quá ít thời gian.
- Lúng túng, mất nhiều thời gian cho việc viết mở bài…
Vậy, làm thế nào để giúp học sinh khắc phục được những hạn chế trên?
Xuất phát từ thực tế trên và kinh nghiệm nhiều năm dạy học, ôn luyện cho học sinh lớp 9 thi vào lớp 10 THPT, tôi xin trình bày một số kinh nghiệm của mình thông qua chuyên đề “ Ôn tập, củng cố kiến thức phân môn Văn học lớp 9”.
Nội dung chuyên đề gồm hai phần:
Phầ n I: Thống kê các văn bản trong chương trình Ngữ văn 9
Phầ n II: Phương pháp ôn tập, củng cố kiến thức
- Bước 1: Ôn tập củng cố theo tác phẩm hoặc tác giả
- Bước 2: Hệ thống kiến thức từng phần, từng mảng, từng chủ đề …
- Bước 3: Mở rộng, khắc sâu kiến thức bằng các chuyên đề nhỏ.
B. NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ
PHẦN I: THỐNG KÊ CÁC VĂN BẢN
I. VĂN HỌC VIỆT NAM:
1. Văn học trung đại (Theo trình tự thời gian sáng tác)
- Chuyện người con gái Nam Xương (Nguyễn Dữ)
- Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh (Phạm Đình Hổ)
- Hoàng Lê nhất thống chí (Ngô gia văn phái)
- Truyện Kiều (Nguyễn Du)
- Truyện Lục Vân Tiên (Nguyễn Đình Chiểu)
2. Văn học hiện đại
*Văn bản nghệ thuật (Theo giai đoạn văn học)
1.Từ 1945 đến 1954:
- Đồng chí (Chính Hữu)
- Làng (Kim Lân)
2.Từ 1955 đến 1975:
- Đoàn thuyền đánh cá (Huy Cận)
- Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Phạm Tiến Duật)
- Bếp lửa (Bằng Việt)
- Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ (Nguyễn Khoa Điềm)
- Nói với con (Y Phương)
- Sang thu (Hữu Thỉnh)
- Con cò (Chế Lan Viên)
- Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng)
- Lặng lẽ Sapa (Nguyễn Thành Long)
- Những ngôi sao xa xôi (Lê Minh Khuê)
3. Từ sau 1975:
- Viếng lăng Bác (Viễn Phương)
- Ánh trăng (Nguyễn Duy)
- Mùa xuân nho nhỏ (Thanh Hải)
- Bến quê (Nguyễn Minh Châu)
* Văn bản nhật dụng & văn bản nghị luận:
- Phong cách Hồ Chí Minh ( Lê Anh Trà)
- Đấu tranh cho một thế giới hoà bình (Market)
- Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ của trẻ em.
- Tiếng nói của văn nghệ (Nguyễn Đình Thi)- Chuẩn bị hành trang vào thế kỷ mới (Vũ Khoan) II. VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI:
- Mây và sóng (Targo)- Cố hương (Lỗ Tấn)- Con chó bấc ( trích Tiếng gọi nơi hoang dã - Jack London)- Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang ( Trích Rô- bin- xơn Cru- xô - Đe-ni-ơnĐi-phô)- Những đứa trẻ ( Trích Thời thơ ấu- Macxim Gorơki).- Bố của Xi mông ( Guyđơ Mô- pa- xăng).- Bàn về đọc sách (Chu Quang Tiềm)- Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông - ten (Hi-pô-lit-Ten)