Chia sẻ tài nguyên vô tận

https://linhhoitrithuc.com


Dàn ý phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều – Trích Truyện Kiều, Nguyễn Du

Vị trí đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”: nằm ở phần mở đầu của phần thứ nhất: gặp gỡ và đính ước. Khi giới thiệu gia đình Thúy Kiều, tác giả tập trung miêu tả tài sắc hai chị em Thúy Vân, Thúy Kiều.
Dàn ý phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều – Trích Truyện Kiều, Nguyễn Du

CHỊ EM THÚY KIỀU

Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo, mặn mà,
So bề tài, sắc, lại là phần hơn.
Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên Bạc mệnh, lại càng não nhân.
Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.


Câu 2: Vị trí đoạn trích
Vị trí đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”: nằm ở phần mở đầu của phần thứ nhất: gặp gỡ và đính ước. Khi giới thiệu gia đình Thúy Kiều, tác giả tập trung miêu tả tài sắc hai chị em Thúy Vân, Thúy Kiều.

Câu 3: Kết cấu đoạn trích: 4 phán
+ Bốn câu đầu: giới thiệu khái quát hai chị em Thúy Kiều
+ Bốn câu tiếp: Gợi tả về đẹp Thúy Vân
+ Mười hai câu còn lại: Gợi tả về đẹp Thúy Kiều
+Bốn câu cuối: nhận xét chung về cuộc sống của hai chị em

Câu 4: Giá trị nội dung và nghệ thuật
Giá trị nội dung “Chị em Thúy Kiều” là khắc họa rõ nét chân dung tuyệt mĩ của hai chị em Thúy Kiều, ca ngợi về đẹp, tài năng và dự cảm về kiếp người tài hoa bạc mệnh của Thúy Kiều là biểu hiện của cảm hứng nhân văn ở Nguyễn Du.
Giá trị nghệ thuật: Thúy Kiều, Thúy Vân và nhân vật chính diện, thuộc Kiều nhân vật lý tưởng trong Truyện Kiều. Để khắc họa vẻ đẹp của nhân vật lý tưởng, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp ước lệ – lấy vẻ đẹp của thiên nhiên làm nổi bật vẻ đẹp của con người. Nhà văn không miêu tà chi tiết cụ thể mà chủ yếu là để gợi. Sử dụng biện pháp đòn bẩy làm nổi bật hình ảnh Thúy Kiều.

Câu 5: Giải nghĩa từ ngữ
Tố Nga: chỉ người con gái đẹp
Mai cốt cách: cốt cách của cây mai mảnh dẻ, thanh tao. Tuyết tinh thần: tinh thần của tuyết trắng và trong sạch. Câu này ý nói cả hai chị em đều duyên đáng, thanh cao, trong trắng.
Khuôn trăng đầy đặn: gương mặt đầy đặn như trăng tròn; nét ngài nở nang: ý nói lông mày hơi đậm, cốt tả đôi mắt đẹp. Câu thơ nhằm gợi tả vẻ đẹp phúc hậu của Thúy Vân. Thành ngữ Tiếng Việt có câu “mắt phượng mày ngài”
Đoan trang: nghiêm trang, đứng đắn (chỉ nói về người phụ nữ)
Làn thu thủy: làn nước mùa thu, nét xuân sơn: nét núi mùa xuân. Cả câu thơ ý nói mắt đẹp, trong sáng như nước mùa thu, lông mày đẹp thanh thoát như nét núi mùa xuân.
Nghiêng nước nghiêng thành: lấy ý ở một câu chữ Hán, có nghĩa là: ngoảnh lại nhìn một cái thì người ta bị xiêu, ngỏanh lại nhìn cái nữa thì nước người ta bị nghiêng ngả, ý nói sắc đẹp tuyệt vời của người phụ nữ có thể làm cho người ta say mê đến nỗi mất thành, mất nước.

Câu 6: Nguyễn Du đã miêu tả con người theo lối nghệ thuật mang tính ước lệ rất quen thuộc trong một két cấu chặt chẽ, với ngòi bút tinh tế.

a, Bốn câu đầu: giới thiệu khái quát về nhân vật,
Với bút pháp ước lệ, tác giả đã gợi được vẻ thanh cao, duyên dáng, trong trắng của người thiếu nữ ở hai chị em Thúy Kiều: “mai cốt cách, tuyết tinh thần” cốt cách như mai, tỉnh thần như tuyết. Đó là vẻ đẹp hoàn hảo mang tính hình thể, tâm hồn cả hai đều đẹp “mười phân ven mười” nhung mỗi người lại mang vẻ đẹp riêng.

b, Bốn câu thơ tiếp: miêu tả vẻ đẹp của Thủy Vân.
– Câu thơ mở đầu vừa giới thiệu Thúy Vân vừa khái quát vẻ đẹp của nhân vật. Hai chữ “trang trọng” gợi vẻ cao sang, quý phái.

– Với bút pháp nghệ thuật ước lệ , vẻ đẹp của Vân được so sánh với những thứ cao đẹp nhất trên đời, trắng, hoa, mây, tuyết, ngọc. Bằng thủ pháp liệt kê chân dung Thúy Vân được miêu tả toàn vẹn từ khuôn mặt, mét mày, làn da, mái tóc đến nụ cười, giọng nói, phong thái ứng xử nghiêm trang đứng đắn. Mỗi chi tiết được miêu tả cụ thể hơn nhờ bổ ngữ, định ngữ, hình ảnh so sánh ẩn dụ.

– Tác giả đã vẽ nên bức chân dung Thúy Vân bằng nghệ thuật so sánh ấn dụ và ngôn ngữ thơ chọn lọc, chau chuốt, khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu tươi sáng như mặt trăng; lông mày sắc nét như con ngài, miệng cười tươi thắm như hoa, giọng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngà ngọc; mái tóc đen óng ả hơn mây, làn da mịn màng hơn tuyết (“Khuôn trăng … màu da).

– Chân dung Thúy Vân là chân dung mang tính cách, số phận. Vân đẹp hơn những gì mà mĩ lệ nhất của thiên nhiên nhưng tạo sự hòa hợp êm đềm với xung quanh: mây thua, tuyết nhường. Thúy Vân hẳn có một tính cách ung dung, điềm đạm, một cuộc đời bình yên không sóng gió.

c, 12 câu thơ tiếp theo: tả vẻ đẹp và tài hoa của Kiều
– Câu thơ đầu đã khái quát đặc điểm của nhân vật :”Kiều càng sắc sảo mặn mà”. Nàng sắc sảo về trí tuệ và mặn mà về tâm hồn…

– Gợi tả vẻ đẹp của Kiều tác giả vẫn dùng những hình tương ước lệ: thu thủy, xuân sơn, hoa, liễu. Đặc biệt khi họa bức chân dung Kiều, tác giả tập trung gợi tả vẻ đẹp đôi mắt. Hình ảnh “Làn thu thủy, nét xuân sơn” là hình ảnh mang tính ước lệ, đồng thời cũng là hình ảnh ẩn dụ, gợi lên một đôi mắt đẹp trong sáng, long lanh, linh hoạt như làn nước mùa thu, đôi lông mày thanh tú như nét núi mùa xuân. Đôi mắt đó là cửa sổ tâm hồn, thể hiện phần tinh anh của tâm hồn, trí tuệ. Tả Kiểu, tác giả không cụ thể như khi tả Vân mà chỉ đặc tả đôi mắt theo lối điểm nhãn – vẽ hồn cho nhân vật, gợi lên một vẻ đẹp chung của một trang giai nhân tuyệt sắc. Vẻ đẹp ấy làm cho hoa ghen, liễu hờn, nước nghiêng thành đổ. Nguyễn Du không miêu tả trực tiếp nhân vật mà miêu tả sự ghen ghét, đố kỵ hay ngưỡng mộ, say mê trước vẻ đẹp đó, cho thấy đây là vẻ đẹp chiều sâu, có sức quyến rũ, cuốn hút lạ lùng.

– Vẻ đẹp tiềm ẩn phẩm chất bên trong cao quý, cái tài, cái tình đặc biệt của Kiều. Tả Thúy Vân chỉ là nhan sắc, còn tả Thúy Kiều, tác giả tả sắc một phần thì hai phần để tả tài Kiều rất mực thông minh và đa tài “Thông minh vốn sẵn tính trời”.

Tài của Kiều đạt đến mức lí tưởng theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến, hội đủ cầm, kỳ, thi, họa “Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm”.

Tác giả đặc tả tài đàn – là sở trường, năng khiếu, nghề riêng của nàng “Cung thương lầu bậc ngữ âm, Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”. Không chỉ vậy, nàng còn giỏi sáng tác nhạc. Cung đàn Bạc mệnh của Kiều là tiếng lòng của một trái tim đa sầu đa cảm “Khúc nhà tay lựa nên chương. Một thân bạc mệnh lại càng não nhân”
Tả tài, Nguyễn Du thể hiện được cả cái tình của Kiều

Chân dung Thúy Kiều là bức chân dung mang tính cách và số phận. Vẻ đẹp khiến cho tạo hóa phải ghen ghét, các vẻ đẹp khác phải đố kị, tài hoa trí tuệ thiên bẩm “lai bậc” đủ mùi, cả cái tâm hồn đa sầu đa cảm khiến Kiều không thể tránh khỏi định mệnh nghiệt ngã, số phận éo le, gian khổ, bởi “Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”, “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”. Cuộc đời Kiều hẳn là cuộc đời hồng nhan bạc mệnh.

* Có thể nói tác giả đã rất tinh tế khi miêu tả nhân vật Thúy Kiều: Tác giả miêu tả chân dung Thúy Vân trước để làm nổi bật chân dung Thúy Kiều, ca ngợi cả hai nhưng đậm nhạt khác nhau ở mỗi người: tác giả chỉ dành bốn câu thơ để tả Vân, trong khi đó dành tới 12 câu thơ để tả Kiều, Vân chỉ tả nhan sắc, Kiều cả tài, sắc, tình đều được tả. Đó chính là thủ pháp đòn bẩy.

d, 4 câu thơ cuối: nhận xét chung về cuộc đời của hai chị em Thúy Kiều
– Họ sống phong lưu, khuôn phép, đức hạnh, theo đúng khuôn khổ của lễ giáo phong kiến. Tuy cả hai đều đã đén tuổi búi tóc cài trâm nhưng vẫn “trướng rủ màn che, tường đông ong bướm đi về mặc ai”.
– Hai câu cuối trong sáng, đằm thắm như che chở bao bọc cho hai chị em hai bồn hoa vẫn còn phong nhụy trong cảnh “êm đềm trướng rủ màn che”.
Tóm lại, đoạn trích đã thể hiện bút pháp miêu tả nhân vật đặc sắc của Nguyễn Du khắc họa nét riêng về nhan sắc, tài năng, tính cách, số phận nhân vật bằng bút pháp nghệ thuật cổ điển.

Câu 7: trong hai bức chân dung của Thúy Vân và Thúy Kiều, em thấy bức chân dung nào nổi bật hơn, vì sao?
Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp ước lệ để ca ngợi cả hai chị em Thúy Vân và Thúy Kiều nhưng đậm nhạt khác nhau ở mỗi người, rõ ràng bức chân dung của Thúy Kiều nổi bật hơn

Chân dung Thúy Vân Chân dung Thúy Kiều
Dùng 4 câu thơ để tả Vân 12 câu để tả Kiều
Với Vân chỉ là ngoại hình theo thủ pháp liệt kê Đặc tả đôi mắt của Kiều theo lối điểm nhãn vẽ hồn cho nhân vật, gợi nhiều hơn tả
Với Vân chỉ tả sắc Với Kiều tả cả sắc, tài tâm
Miêu tả chân dung Thúy Vân trước để làm nổi bật chân dung Thúy Kiều

Tóm tắt
– Đặc tả vẻ đẹp của ‘Thủy Vân, Nguyễn Du tập trung miêu tả các chi tiết trên khuôn mặt hàng bằng bút pháp ước lệ và nghệ thuật liệt kê Thúy Vân xinh đẹp, thùy mị đoan trang phục hậu và rất khiêm nhường.
Đặc tả vẻ đẹp của Thúy Kiều, Nguyễn Du tập trung làm nổi bật vẻ đẹp của tài và sắc.
+ Tác giả miêu tả khái quát: “Sắc sảo mặn mà”.
Một vừa hai phải lắm ai ơi
Tài tình chi lắm cho trời đất ghen
+ Đặc tả vẻ đẹp đôi mắt: vừa gợi tả vẻ đẹp hình thức, vừa gợi tả vẻ đẹp tâm hồn (hình ảnh ước lệ).
+ Dùng điển cổ “Nghiêng nước nghiêng thành” diễn tả vẻ đẹp hoàn hảo có sức lôi cuốn mạnh mẽ.
+ Tài năng: phong phú đa dạng, đều đạt tới mức lý tưởng.
– Cái tài của Nguyễn Du biểu hiện ở chỗ miêu tả ngoại hình nhân vật làm hiện lên vẻ đẹp tính cách và tâm hồn. Và đằng sau những tín hiệu ngôn ngữ lại là dự báo về số phận nhân vật.
+ “Thua, nhường” – Thúy Vân có cuộc sống êm đềm, suôn sẻ
+ “Hờn, ghen” -> Thúy Kiều bị thiên nhiên đố kỵ, ganh ghét -> số phận long đong, bị vùi dập.

Câu 8: Cảm hứng nhân đạo của tác giả Nguyễn Du thể hiện qua đoạn trích,
– Trong truyện Kiều, một trong những biểu hiện cảm hứng nhân đạo là việc ca ngợi, để cao những giá trị, phẩm chất của con người như nhan sắc, tài hoa, nhân phẩm, khát vọng, ý thức về thân phận, nhân phẩm cá nhân.
– Một trong những ví dụ điển hình của cản hứng nhân đạo ấy là đoạn trích “Chị em Thúy Kiều. Nguyễn Du sử dụng những hình ảnh đẹp nhất, những ngôn từ hoa mĩ nhất để miêu tả vẻ đẹp con người, phù hợp với cảm hứng ngưỡng mộ, ngợi ca giả trị con người. Tác giả còn dự cảm về kiếp người tài hoa bạc mệnh của Kiều. Đó chính là cảm hứng nhân văn cao cả của Nguyễn Du xuất phát từ lòng đồng cảm sâu sắc với mọi người.

Câu 9: So sánh đoạn thơ “Chị em Thúy Kiều” với trích đoạn trong “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân, ta càng thấy được sự sáng tạo tài tình của Nguyễn Du.
– Nếu như Thanh Tâm Tài Nhân kể về hai chị em Thúy Kiều bằng văn xuôi thì Nguyễn Du miêu tả họ bằng thơ lục bát.
– Thanh Tâm Tài Nhân chủ yếu là kể về hai chị em Kiều; còn Nguyễn Du thì thiên về gợi tả sắc đẹp Thúy Vân, tài sắc Thúy Kiều,
– Thanh Tâm Tài Nhân tả Kiểu trước, Vân sau: “Thúy Kiều này nhỏ mà dài, mắt trong mà sáng, tạo như trăng thu, sắc tựa loa đào, Còn Thúy Vân thì tinh thần tĩnh chính, dung mạo đoan trang, có một phong thái riêng khó mô tả”. Đọc lên ta cảm giác như tác giả tập trung vào Vân hơn, hình ảnh của Vân nổi bật hơn. Ngay ở đoạn giới thiệu đầu truyện, hình ảnh Kiều cũng không thật sự nổi bật. Còn Nguyễn Du tả Vân trước làm nên tô đâm thêm vẻ đẹp của Kiều theo thủ pháp nghệ thuật đòn bẩy.
– Khi miêu tả, Nguyễn Du đặc biệt chú trọng đến tài năng của Kiều, qua việc miêu tả ngoại hình, tài hoa còn thể hiện được tấm lòng, tính cách và dự báo được số phận nhân vật. Thanh Tâm Tài Nhân không làm được điều đó, bút pháp cá thể hóa nhân vật của ông không rõ nét bằng của Nguyễn Du.
Nhưng sự khác biệt này đã giải thích vì sao cùng một cốt chuyện mà “Kim Vân Kiều truyện” chỉ là cuốn sách bình thường, vô danh còn “Truyện Kiều” được coi là một kiệt tác, Thanh Tâm Tài Nhân chỉ là tác giả không có danh tiếng, ít người biết đến trong khi Nguyễn Du là một tác giả lớn, một đại thi hào.

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây